16 thg 2, 2014

Giá trị của Kinh Paritta


Trích từ: 

Phật Giáo, Nhìn Toàn Diện (The Spectrum of Buddhism) 

Hòa thượng Piyadassi 

Phạm Kim Khánh dịch 

“Gần đây, công trình khảo cứu y khoa về tâm lý học thực nghiệm đã rọi vài tia sáng vào bản chất của tâm và vị trí của nó trên thế gian. Trong bốn mươi năm sau này, giới y khoa ngày càng tin tưởng chắc chắn hơn rằng các chứng bịnh, thuộc hữu cơ cũng như những bịnh thuộc về cơ năng, trực tiếp khởi sanh do những trạng thái tâm linh.
“Cơ thể lâm bịnh vì cái tâm mà kiểm soát nó thầm kín muốn làm cho nó bịnh hay gì khác, bởi vì trong trạng thái loạn động như vậy không thể ngăn ngừa cơ thể khỏi bịnh. Dầu tình trạng vật lý như thế nào, sức kháng bịnh chắc chắn phải liên hệ đến điều kiện (tâm linh) của bịnh nhân.”
“Tâm không những chỉ gây bịnh, mà cũng chữa bịnh. Một bịnh nhân lạc quan có nhiều hy vọng được hồi phục hơn là người bịnh luôn luôn lo âu và bất mãn. Có nhiều trường hợp được ghi nhận cho thấy rằng một niềm tin vững chắc có khả năng chữa trị, luôn cả những chứng bịnh thuộc hữu cơ, hầu như tức khắc.”
Về điểm này ta thích thú ghi nhận rằng trong các quốc gia Phật Giáo rất thường có người đặt hết niềm tin lắng nghe đọc những bài kinh nhằm bảo vệ, thoát khỏi ảnh hưởng xấu, và đem lại tình trạng an lành hạnh phúc. Những bài kinh được chọn lựa để đọc tụng có tên là Paritta suttas. Danh từ Pali “Paritta” (tiếng Sanskrit là Paritrana và tiếng Sinhala là Pirit) nghĩa chánh là “bảo vệ”. Danh từ này mô tả vài bài kinh, hay bài giảng (do Ðức Phật thuyết), được xem là có tư cách bảo vệ và làm cho thoát khỏi những ảnh hưởng xấu. Nghi thức đọc tụng và nghe Paritta sutta bắt đầu từ xa xưa trong lịch sử Phật Giáo. Chắc chắn rằng đọc những bài kinh này có tạo trạng thái tâm an lành cho những ai lắng nghe một cách hiểu biết và tin tưởng nơi chân lý của Phật ngôn. Tâm trạng an lành như vậy có thể giúp một người bịnh sớm phục hồi và cũng có thể giúp đưa đến thái độ tinh thần an lạc hạnh phúc. Lúc ban sơ, tại Ấn Ðộ những người nghe chính Ðức Phật nói lên bài kinh Paritta, hiểu biết ý nghĩa của lời kinh thì có rất nhiều linh nghiệm. Ðức Phật cũng được người khác đọc kinh Paritta cho Ngài, và cũng có khi Ngài yêu cầu người khác đọc cho các vị đệ tử của Ngài khi lâm bịnh. Nghi thức này vẫn còn thạnh hành trong các quốc gia Phật Giáo.
Ðức Phật và chư vị A La Hán có thể gom tâm vào những bài kinh Paritta mà không cần ai giúp. Tuy nhiên, khi đau ốm bịnh hoạn, các Ngài nghe người khác đọc rồi trụ tâm vào Giáo Pháp chứa đựng trong kinh thì dễ dàng hơn là chính các Ngài nghĩ đến Giáo Pháp. Trong những trường hợp như bịnh nặng, tâm trí mệt mỏi, có ai gợi lên cho ta ý nghĩ thì công hiệu hơn là chính ta tự kỷ ám thị.
Theo Giáo Pháp, tâm mật thiết dính liền với thân đến độ những trạng thái tâm có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và tình trạng an lành của cơ thể. Cũng có vài bác sĩ nói rằng không có chi thuần túy là bịnh cơ thể. Như vậy, ngoại trừ trường hợp những trạng thái tâm bất thiện ấy sanh khởi do những hành động bất thiện trong quá khứ (akusala kamma-vipàka), và như vậy thì không thể tu chính, ta có thể sửa đổi để làm cho sức khỏe tâm linh và tình trạng an lạc của thân có thể theo đó cải thiện.
Rung động của những âm thanh mà kinh Paritta tạo nên làm êm dịu thần kinh và đưa đến trạng thái tâm thanh bình an lạc, hòa điệu với toàn thể hệ thống.
Bằng cách nào đọc Paritta Suttas có thể đối trị những ảnh hưởng xấu của các chúng sanh bất thiện? Những ảnh hưởng xấu ấy là kết quả của sự suy tư bất thiện. Như vậy, có thể đối trị nó bằng các trạng thái tâm tốt. Những trạng thái tâm tốt này phát sanh do sự lắng nghe những lời dạy của kinh Paritta một cách hiểu biết và với niềm tin vững chắc. Chăm chú lắng nghe giúp gom tâm. Tâm an trụ nhiệt thành theo dõi chân lý của lời Phật dạy sẽ tiêu trừ những tư tưởng bất thiện.
Ðọc Paritta Sutta là một hình thức saccakiriya, nương nhờ chân lý để được bảo vệ, xác nhận chân lý để tự bảo vệ. Ðây có nghĩa là tự đặt mình trọn vẹn củng cố trong chân lý để đạt đến mục tiêu. Câu nói: “Oai lực của chân lý bảo vệ người sống theo chân lý” (Dhammo have rakkhati dhammacàrim) là nguyên tắc nằm phía sau công phu đọc tụng những bài kinh này. Nếu đúng thật đức hạnh bảo vệ con người đức hạnh, thì một người chăm chú lắng nghe kinh với niềm tin vững chắc nơi những lời của Ðức Phật, vốn phát xuất từ trí tuệ của một đấng toàn giác, ắt phải tiến đạt đến trạng thái tâm đầy đủ phẩm hạnh để diệt trừ mọi ảnh hưởng bất thiện. Ðọc tụng những bài Paritta suttas cũng đem lại phước lành có tánh cách vật chất xuyên qua những trạng thái tâm linh, bằng cách gom tâm an trụ và đặt niềm tin trong sự lắng nghe lời kinh một cách hiểu biết. Theo lời dạy của Ðức Phật, chánh tinh tấn là yếu tố thiết yếu để khắc phục đau khổ (viriyena dukkham accheti) [11]. Thành tâm lắng nghe những bài kinh ấy một cách thích nghi cũng làm tăng thêm lòng thiết tha muốn làm những việc tốt, và chuyên cần thuận theo con đường tiến bộ của thế gian.

Chi tiết bổ sung

Ðã được biết rằng lắng tai nghe các bài Paritta suttas một cách hiểu biết và tin tưởng, sẽ tạo cho người nghe những thiện pháp có thể chữa trị và ngăn ngừa bịnh. Không có thuốc nào công hiệu như chân lý (Dhamma), cho cả thân lẫn tâm, vốn là nguyên nhân của tất cả mọi đau khổ và bất hạnh. Như vậy Paritta suttas, khi được lắng nghe một cách chân chánh, sẽ đem lại tiến bộ tinh thần và tình trạng vật chất thanh bình, an lạc.



Sách Paritta (Bảo Vệ)


Ta lấy làm thích thú và mát mẻ mà ghi nhận rằng hầu như trong nhà tất cả mọi người Phật tử ở Sri Lanka (Tích Lan) đều có một quyển sách Paritta, hay sách Bảo Vệ, luôn luôn được tôn kính cất giữ ở một nơi quan trọng.
Sách chứa đựng những gì? Ðây là một tuyển tập hai mươi ba bài kinh, hầu hết đều do Ðức Phật thuyết giảng, được ghi chép rải rác đó đây trong năm bộ A Hàm, Nikàyas, gom chung lại thành Tạng Kinh, Sutta Pitaka hay “Giỏ Ðựng Kinh”. Trước khi đọc những bài kinh này có nghi thức quy y Tam Bảo (saranagamana); thọ Mười Giới (dasa sikkhà-padàni); và những câu hỏi được nêu lên cho thầy sa di (sàmanera panhà), cũng được gọi là câu hỏi cho người trẻ tuổi (kumàra panhà). Trong hai mươi ba bài kinh này được biết nhiều nhất là Hạnh Phúc Kinh (Mangala Sutta), Tam Bảo Kinh (Ratana Sutta), và Từ Bi Kinh (Mettà Sutta).




Trong sách Paritta (Bảo Vệ) cũng có những bài giảng quan trọng như Dhammacakkapavattana Sutta (Kinh Chuyển Pháp Luân, bài giảng đầu tiên của Ðức Phật, thuyết tại Vườn Lộc Uyển, Isipatana, Vàrànasi); bài Sacca-vibhanga, Phân Giải (Bốn) Chân Lý, và Bojjhangas, Thất Giác Chi hay Thất Bồ Ðề Phần.

Khi các nhà sư được cung thỉnh về nhà trong những trường hợp như sinh nhật, tân gia, đau ốm hay những diễn biến tương tợ, thông thường các Ngài đọc tụng những bài kinh được đề cập trên đây. Trong những cơ hội đặc biệt, chư tăng được cung thỉnh đọc tụng Paritta suttas, không phải một thời kinh mà luôn suốt đêm. Lúc khai kinh, chư tăng (thường là mười hai vị) cùng đọc chung với nhau ba bài kinh được đề cập ở phần trên. Sau đó từng cặp, mỗi lần hai vị, tiếp tục đọc tụng hai tiếng đồng hồ, rồi nghĩ. Hai vị khác tiếp theo đọc hai tiếng, và cứ thế sáu cặp thay phiên nhau tụng kinh suốt đến bình minh. 



Trong khi chư tăng tụng kinh người ta để một lọ nước trên bàn trước mặt các Ngài. Trên bàn cũng có một quyển kinh Paritta ghi chép trên lá buôn, một cuồng chỉ đã được tháo gỡ và trao chuyền từ mỗi vị sư đến những người cư sĩ, mỗi người cầm chỉ trên tay trong khi chư tăng đọc tụng ba bài kinh thông thường để khai mạc. Ðến sáng, vào lúc bế mạc, trọn các bài kinh trong sách đã được đọc tụng, chỉ được cắt ra từng đoạn và phân phối cho hàng cư sĩ. Nước trong lọ cũng được sớt ra và phân phối. Ðây là nghi thức tượng trưng cho oai lực bảo vệ của kinh Paritta đã được đọc tụng. Nước và chỉ này có những linh nghiệm tâm lý.




Một thắc mắc có thể được nêu lên: sách Paritta có đem lại kết quả mong mỏi mỗi lần đọc tụng không? Về điểm này, câu trả lời của Ðại Ðức Nagasena với Vua Milinda, “tại sao trong mọi trường hợp kinh Paritta không bảo vệ ta khỏi chết,” đáng được ghi nhớ.


Có ba nguyên nhân làm cho kinh Paritta có thể không linh nghiệm:
1. chướng ngại của nghiệp (kammà- varanena);
2. chướng ngại của ô nhiễm (kilesa-varanena); và
3. thiếu niềm tin (asaddhànatàya). 




Hồi Hướng Phước Báu


Ðời sống sau khi chết (và do đó, đời sống trước khi sanh) là một trong những giáo lý chánh yếu của Ðức Phật. Người Phật tử tin nơi tái sanh hay một cách chính xác – nơi sự trở thành trở lại (không phải là đầu thai, bởi vì nói đầu thai là hàm xúc ý nghĩ có một linh hồn thường còn không biến đổi, chuyển sinh vào bên trong cơ thể của một người hay một con thú). Theo lời khuyên của Ðức Phật người Phật tử chia sẻ phước báu cho thân nhân quá vãng. Hành động này thường được gọi là “hồi hướng phước báu”, tức trao chuyển công đức mà mình đã tạo đến người quá cố. 




Trong Phật Giáo danh từ “phước báu” (punna) được dùng trong ý nghĩa việc làm tốt, thiện, tạo thiện nghiệp. Những việc mà mình làm với tâm trong sạch; hành động được thực hiện với tác ý tốt, thiện tâm. Hành động (kamma) có ba: hành động bằng thân, khẩu hay ý. Tất cả mọi hành động, thiện hay bất thiện, đều gây phản ứng (kamma-vipàka).

Một người đã tạo thiện nghiệp quyết tâm trao chuyển, chia sẻ quả lành đến “vị này, vị này”. Sự “hồi hướng phước báu” tự nó là một hành động tốt và người hồi hướng không có mất gì, mà trái lại còn tích trử thêm phước báu. Khi hồi hướng phước báu đến người quá vãng, người Phật tử đọc một công thức ngắn gọn bằng tiếng Pali: “idam vo nàtinam hotu sukhita hontu nàtayo”. “Ngưỡng nguyện phước báu này phát sanh đến thân nhân chúng tôi, cầu xin thân nhân chúng tôi được an vui hạnh phúc.” 



Trong thời Ðức Phật, tại Ấn Ðộ người ta dùng máu để tế lễ thần linh. Ðức Phật có thái độ dứt khoát đối với hành động sát sanh, bất luận sát sanh để nhằm vào mục tiêu nào. Tâm từ vô lượng bao trùm tất cả chúng sanh của Ngài đã thắng triết học Veda (Phệ Ðà) và triết học Upanishad với sự cảm hóa Vua Seniya Bimbisara (Bình Sa Vương) của xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà), người đầu tiên chấp nhận chánh sách ahimsà (bất bạo động) một cách không thể đảo ngược. Ông ban hành đạo luật phải được áp dụng toàn quốc, cấm hy sinh mạng thú để tế lễ thần linh. Các nhà cầm quyền trị dân khác cũng noi theo gương lành của ông. Tạng Kinh, tuyển tập các bài thuyết giảng của Ðức Phật, có nhiều bài kinh trong đó Ðức Phật thuyết phục các vị bà la môn nên thấy rõ đường lối sai lầm của họ và chấm dứt tập tục hy sinh con vật để tế lễ thần linh. Kùtadanta Sutta (Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, số 5) là một trong những bài kinh ấy.


Tập tục được lưu truyền từ xưa đến nay là trong khi chư tăng đọc kinh để hồi hướng đến thân nhân quá vãng, người thiện tín sớt nước từ một cái lọ đầy vào ly trống cho đến khi nước tràn ly. Tập tục này không thấy có ghi ở nơi nào trong kinh điển. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chỉ trích và từ bỏ. Tánh cách thiêng liêng của nghi thức này đã từ lâu được tín nhiệm. Ðức Phật cho phép áp dụng những tập tục xã hội nào mà không đi ngược giáo huấn của Ngài.


Trong dịp lễ khánh thành ngôi chùa Jetavana (Kỳ Viên Tự), người ta rót nước vào tay của Ðức Phật. Trong lễ thành hôn, cô dâu và chú rễ nắm tay nhau, và nước được rót lên. Hồi hướng phước báu là một hành động quý báu theo đó người cho phước phát tâm trong sạch muốn phục hồi cho thân nhân quá vãng, từ tình trạng bất hạnh trở lại trạng thái an vui hạnh phúc. Vì lẽ ấy nghi thức này phải được cử hành nghiêm trọng. Dầu sao, người không quen với tập tục xưa cũ này không nên làm hư hõng việc hồi hướng phước báu.




Trong các xứ Phật Giáo, sau khi nghi thức dâng vật thực đến chư tăng đã hoàn tất, thì chư sư, những vị hội viên của Giáo Hội Tăng Già, đồng thanh đọc câu hồi hướng phước báu đến người quá cố như sau:

“Cũng như nước từ trên cao chảy xuống thấp, cùng thế ấy, phước báu (mà thân nhân làm đây) ở cảnh người, được chia sẻ cho người quá vãng (ở một cảnh giới khác).
“Cũng như nước từ các sông ngòi tuôn chảy làm đầy biển cả, cùng thế ấy, phước báu này được chia sẻ cho thân nhân quá vãng.”
- (Tirokudda Sutta, Khuddakapàtha, trang 213). 

Có chăng một ngày nhất định để tạo phước và hồi hướng đến thân nhân quá vãng? Không có lời dạy nào của Ðức Phật, cho biết ngày giờ nhất định. Tuy nhiên, người Phật tử thường có thói quen chọn ngày thứ ba, ngày thứ bảy, tháng thứ ba, và đôi khi ngày giáp năm, để cúng. Ta nên theo tập tục, và cũng nên nhớ câu châm ngôn mà người uống trà thường nói: “Giờ nào cũng là giờ uống trà” [13]. Có nghĩa là: mỗi khi tạo phước báu, bất cứ lúc nào, hãy nhớ đến người thân quá vãng, từ khi bắt đầu việc làm.



Sau khi làm một điều thiện, tạo phước báu, người Phật tử cũng hồi hướng đến chư thiên (devatà, chúng sanh ở cảnh trời). Bởi vì các vị này cũng mong muốn được chia sẻ phước báu mà con người hồi hướng. Dầu sao, chư thiên không phải là những chúng sanh siêu thế có những quyền năng siêu thế. Các vị ấy được sanh vào nhàn cảnh (sugati) và có thể giúp người, theo phương cách của các Ngài. Năng lực của các vị này vẫn còn tại thế và hạn định, không thể dẫn dắt đến giác ngộ và giải thoát cùng tột. Các Ngài cũng còn chịu ảnh hưởng của định luật nghiệp báo (kamma), vô thường và chết – dầu ở cảnh người hay cảnh trời, không ai thoát khỏi cảnh chết chóc. Con người hồi hướng phước báu đến chư thiên và các Ngài hoan hỷ và như thế có tình trạng hòa điệu, thiện ý, và thanh bình an lạc giữa hai cảnh giới, người và chư thiên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét