Hiển thị các bài đăng có nhãn TT Giác Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TT Giác Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng

8 thg 5, 2018

VẤN ĐỀ THIÊN XỨ

VẤN ĐỀ THIÊN XỨ
( DEVADŪTA )
Tất cả chúng sanh trong đời đều có thiên hướng khác nhau , mỗi người có một cơ tánh riêng biệt nhưng nếu xét trên khía cạnh tổng quát thì tất cả chỉ nằm trong bốn trường hợp sau đây :
1- Thích sống thiện hơn sống ác
2- Vừa thích tu thiện mà cũng ưa tạo ác
3- Tánh thích tạo ác hơn tu thiện
4- Tánh thuần ác , chỉ nghiêng về điều ác .
Hạng đầu tiên tới giờ cận tử chỉ cần nhờ tới đại công đức của mình cũng đủ tái sanh lạc cảnh . Sự hồi tưởng công đức của hạng này vô cùng dễ dàng .
Hạng thứ hai tới lúc cận tử phải cố sức nghĩ về những thiện sự của mình đã làm hoặc phải có người khác nhắc nhở luôn miệng mới hy vọng tránh khỏi đọa xứ . Nếu chính mình phóng dật hoặc thế sự nhắc nhở thì rất dễ dàng vọng niệm mà sa đọa .
Hạng thứ ba vốn liếng công đức kém hơn những ác nghiệp đã huân tập nên không thể tự mình gợi lại các thiện sự đã làm bởi chúng quá ít oi , cho nên tới lúc cận tử ấy phải cần có người nhắc nhở , mà sự nhắc nhở ấy đòi hỏi phải có sức tác động mạnh , một lời nhắc nhở chí thiết và sâu sắc chớ không thể hời hợt lỏng lẻo .
Riêng về hạng người thứ tư thì chỉ có thể tránh khỏi đọa xứ khi được sự giúp đỡ của Đức Phật và các đại thinh văn hoặc nhờ vào một công đức nào đó trong đời quá khứ , mà thường điều này rất mong manh . Đối với hạng thứ tư này khi đã sinh vào địa ngục thì không có cái may mắn được gặp Diêm Vương .
Còn hạng thứ hai , thứ ba khi xuống địa ngục có thể được gặp Diêm Vương để vị này nhắc nhở hồi tưởng lại công đức cũ , nhờ vậy may ra có thể thoát khỏi địa ngục . Tức là khi gặp hai hạng người này quỷ sứ sẽ dẫn họ tới diện kiến Diêm Vương , vị ấy sẽ hỏi họ về các hiện tượng thiên sứ rằng :
- Khi thấy cảnh sanh, già , đau , chết trong đời người có biết tu tỉnh thân tâm ; tạo trữ công đức chăng ?
Nếu những tội nhân đó nhớ lại phước báu của mình đã làm khi ở cõi người thì lập tức thoát khỏi địa ngục để tái sinh làm người hay trời . Nếu những tội nhân ấy không nhớ được gì thì Diêm Vương sẽ nói với họ như sau :
-Mọi nghiệp sự của ngươi đã làm không phải do cha mẹ , vợ chồng , con cái , thầy tổ , chư thiên hay bất cứ người nào khác , vì vậy ngươi phải tự chịu trách nhiệm về những nghiệp sự đó , không ai có thể gánh vác các dị thục quả đó thay ngươi đâu làm sao thì chịu vậy .
Diêm Vương sẽ gợi ý cho các tội nhân ấy nhiều lần nếu họ tự nhớ thì thôi , bằng như không thể nhớ được thì Diêm Vương sẽ suy nghĩ : “ Người này khi ở cõi người có tạo công đức gì không nhỉ ?”
-Nếu những ai lúc còn mang thân nhân loại biết tạo trữ phước báu và hồi hướng đến các Diêm Vương thì khi họ bị sanh vào địa ngục , các vị Diêm Vương sẽ nhớ lại được công đức của người ấy đã tạo vì các vị đó đã có nhận phước từ người ấy .
-Nếu người ấy có tạo mười công đức mà quên hồi hướng cho Diêm Vương thì Diêm Vương không thể nhớ giùm họ những công đức ấy khi quán xét thấy không thể giúp cho người đó được gì , bởi không nhớ họ đã tạo phước gì để gợi ý cho họ hồi tưởng , thì Diêm Vương sẽ ngồi im lặng . Lúc đó các quỷ sứ sẽ lôi người ấy để trừng trị một cách thích đáng với những ác nghiệp đã tạo .
-Nếu các Diêm Vương nhớ được người ấy đã tạo công đức gì thì các vị ấy sẽ nhắc trực tiếp cho người ấy nhớ , nhờ vậy anh ta sẽ được thoát cảnh địa ngục .
Vì vậy khi làm công đức gì , chúng ta không nên quên Diêm Vương , phải nhớ hồi hướng đến họ ; họ sẽ giúp đỡ chúng ta một cách hiện hữu và đắc lực khi một mai chúng ta lỡ sinh vào địa ngục của họ .
SƯ GIÁC NGUYÊN-TOẠI KHANH

nguồn FB @ Simsapa

3 thg 5, 2018

PHẬT MÔN BÍ DƯỢC- Toại Khanh sưu khảo

PHẬT MÔN BÍ DƯỢC
Toại Khanh sưu khảo


Năm nay tôi đã gần bốn mươi tuổi, nhưng nếu tiền nghiệp cho sống đến trăm tuổi mà có ai hỏi về phép trường sinh ích thọ thì trước sau tôi cũng cho họ mỗi toa thuốc này. Phù âm ích dương, tráng khí bổ huyết, tiêu độc nhuận trường, tất thảy đều có thể dùng mỗi bài thuốc này. Tùy theo bệnh trạng và thể chất mỗi người mà liều lượng linh động gia giảm cho thích hợp.
Người xuất gia đúng nghĩa thường như mây ngàn hạc nội, tứ hải vi gia và đại giang nam bắc đều là những quán trọ. Bước đường trôi nổi xô giạt này thường có lắm hiểm nạn. Thôi thì độc chưởng, ám khí, đắng ngọt đủ cả, và lành ít dữ nhiều. Dặm trường không bạn, trăm sự tự liệu. Vì đó mà kẻ hành tẩu ít nhiều cũng phải có sẵn vài ba bí phương phòng thân. Nội dung của bài thuốc này dẫn xuất từ bài thiệu thứ hai của Phật điển Trung Bộ.
Trước sau bài thuốc chỉ có bảy vị:
1) Tri Kiến Tuyết Liên: Có những tục lụy phải được chấm dứt bằng cái nhìn quán chiếu như thật. Sự hiện hữu của muôn loài chỉ là sự kết nối của năm uẩn vốn vô thường, khổ, không. Không hề có một con sông hay biển cả nào trong những giọt nước.
2) Hộ Căn Kỳ Sâm: Có những tục lụy phải được giải quyết từ sự phong bế các đại huyệt mà Phật gia gọi là Lục Căn không để bát phong thần chưởng của nhân gian xô động. Phòng cháy luôn tốt hơn chữa cháy. (được/mất, nhục/vinh, khen/chê, khổ/vui)
3) Thọ Dụng Sâm Thương Thảo: Có khi tục lụy được giải quyết bằng sự sử dụng khôn ngoan vài thứ vật chất nhu yếu như thêm dầu vào đèn, tưới nước vào cây. Đời tu không sao phủ nhận triệt để mọi tiếp liệu, nhưng phải luôn ở mức Cần và Đủ.
4) Kham Độc Thần Sa: Đôi lúc tục lụy được dàn xếp chỉ bằng chút khả năng gồng mình chịu đựng của hành giả. Từ nắng gió mưa sương đến những trò đời nghiệt ngã đều phải được đón nhận bằng hai hàm răng cắn chặt. Bị đau nhưng không để khổ, bị thất nhưng không bại, nghèo nhưng không hèn, nhẫn mà không nhục.
5) Đào Tị Lăng Ba Thủy: Nhiều lúc tục lụy phải được chấm dứt bằng sự lẩn tránh. Không phải lúc nào sự đương đầu đối mặt cũng là thượng sách khi mà hành giả chưa đủ nội lực hoặc sự va chạm đó không thực sự cần thiết mà chỉ làm tiêu hao tâm huyết.
6) Khu Tà Tục Cốt Tán: Có những trường hợp tục lụy cần được chấm dứt bằng sự trực diện để nhổ cỏ tận gốc. Biết đó là ác niệm độc hại thì lập tức đối trừ không lần lửa.
7) Huân Tu Tráng Lực Đơn: Là trường hợp các tục lụy được giải quyết bằng việc tu tập các Giác Chi theo thế đối trọng. Thiện đến thì ác đi. Trong một không gian nội tâm không thể cùng lúc hiện hữu hai món tương khắc. Bởi xưa nay chánh tà bất lưỡng lập.
Thánh hiền ba đời vẫn tự tại trong đời bằng bảy phương thần dược đó. Phàm nhờ đây mà ra thánh và thánh cũng theo đó mà an lạc suốt buổi bình sinh.
Mong thiên hạ lại vui trong mùa đông về, như tôi vẫn ngày ngày an lạc. Vì suy cho cùng cuộc đời có bao nhiêu mà hững hờ Phật pháp và trong lòng những hành giả trên đường về Kusinara thì hôm qua hay hôm nay cũng là một ngày như mọi ngày mà thôi. Mong thay!
Toại Khanh sưu khảo