23 thg 10, 2015
22 thg 7, 2015
[sách nói] Con Đường Cổ Xưa (Piyadassi Mahathera)
Tác giả: Piyadassi Thera
Dịch giả: Tỳ khưu Pháp Thông
17 thg 7, 2015
Thất giác chi (Satta Bojjhanga)- Hòa thượng Piyadassi
Thất giác chi
(Satta Bojjhanga)
Hòa thượng Piyadassi
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1974
Danh từ Bojjhanga bao gồm hai phần: bodhi và anga. Bodhi bao hàm ý chứng ngộ, hay nói một cách chính xác, là sự hiểu biết sâu sắc liên quan đến sự chứng ngộ Tứ Diệu Ðế, bốn Chơn Lý Cao Quý, tức là Chơn Lý Cao Quý về sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về nguồn gốc của sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về sự chấm dứt khổ, và Chơn Lý Cao Quý về con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ. Anga có nghĩa là yếu tố, hay tay chơn (chi). Do đó, Bodhi + anga (bojjhanga) là những yếu tố của sự giác ngộ, hay những yếu tố của tuệ minh sát, hay của trí tuệ. Danh từ nầy thường được dịch là Thất Giác Chi.
"Bojjhanga! Bojjhanga! Bạch hóa Ðức Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ dạy, lời dạy nầy có thể được áp dụng đến mức nàỏ" Một thầy tỳ-khưu bạch hỏi Ðức Phật như vậỵ
"Bhodaya samvattantiti kho bhikkhu tasma bhojjhanga ti vuccanti".
"Nó dẫn đến giác ngộ, nầy tỳ-khưu, vì lẽ ấy nó được gọi như thế".
9 thg 7, 2015
3 thg 7, 2015
31 thg 5, 2015
[sách nói] Mi Tiên Vấn Đáp
MI TIÊN VẤN ĐÁP
Dịch giả: Hoà Thượng Giới Nghiêm - Hiệu đính Tỳ Kheo Giới Đức
1 thg 5, 2015
[pháp thoại] Giảng câu Pháp Cú 293 - TK Giác Tuệ
File ghi âm bài giảng câu PC 293 do TK Giác Tuệ (Thầy Đức Tài) giảng tại room Paltalk: Phat Giao Nam Truyen Theravada
30 thg 4, 2015
[sách nói] Trưởng Lão Ni Kệ - Therigàthà
Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ
Trưởng Lão Tăng Kệ là quyển thứ tám của Tiểu Bộ Kinh, một tập hợp 264 tích truyện trong dạng các câu kệ do các vị tỳ kheo đệ tử của Ðức Phật thuật lại về cuộc đời, công phu tu tập và tinh tấn hành trìcủa quý Ngài trên đường đưa đến đạo quả A-la-hán. Trong khi đó,Trưởng Lão Ni Kệ là quyển thứ chín, gồm 73 tích truyện về
cuộc đời các vị tỳ kheo ni đệ tử A-la-hán của Ðức Phật.
cuộc đời các vị tỳ kheo ni đệ tử A-la-hán của Ðức Phật.
[sách nói] Trưởng Lão Tăng Kệ-Theragàthà
Giới thiệu
Tỳ kheo Ariyasilo
(Bình Anson lược dịch, tháng 01-2001)
Tỳ kheo Ariyasilo
(Bình Anson lược dịch, tháng 01-2001)
27 thg 4, 2015
[pháp thoại] 10 Tùy Phiền Não
10 Tùy Phiền Não
Khóa Thiền 7 Ngày tại Thiền Việc Phước Sơn
Thiền Sư - U - JaTiLa
25 thg 4, 2015
[sách nói] Phương pháp căn bản Thiền Minh Sát
Phương pháp căn bản Thiền Minh Sát
Tác giả: The Venerable Mahasi Sayadaw
Dịch giả: Cố Bác sĩ Nguyễn Trạch Thiện
Thục hiện: Dhamma Ratana
Tác giả: The Venerable Mahasi Sayadaw
Dịch giả: Cố Bác sĩ Nguyễn Trạch Thiện
Thục hiện: Dhamma Ratana
23 thg 4, 2015
Những Chi Tiết Của 3 Trạng Thái Chung- Vô thường, KHổ, Vô NGã
Những Chi Tiết Của 3 Trạng Thái Chung
Tất cả mọi danh pháp, sắc pháp thuộc trong tam giới đều có 3 trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã.
Trong mỗi trạng thái chung của danh pháp, sắc pháp ấy, có nhiều trạng thái chi tiết được khai triển rộng trong bộ Visuddhimagga, phần Maggāmaggañāṇavisuddhi như sau:
4.1- Trạng thái vô thường có 10 loại
1- Aniccato: Trạng thái không thường.
2- Adhuvato: Trạng thái không bền vững.
3- Asārakato: Trạng thái vô dụng, không cốt lõi.
4- Calato: Trạng thái biến động.
5- Palakato: Trạng thái tiêu hoại.
6- Vipariṇāmadhammato: Trạng thái biến đổi là thường.
7- Maraṇadhammato: Trạng thái hủy diệt (chết) là thường.
8- Vibhavato: Trạng thái bị hoại.
9- Saṅkhato: Trạng thái bị cấu tạo.
10- Pabhaṅguto: Trạng thái bị tan rã.
Đó là 10 chi tiết nêu lên trạng thái vô thường của danh pháp, sắc pháp.
4.2- Trạng thái khổ có 25 loại
1- Dukkhato: Trạng thái khó chịu.
2- Bhayato: Trạng thái đáng kinh sợ.
3- Ītito: Trạng thái khốn đốn.
4- Upaddavato: Trạng thái tai nạn nguy hiểm.
5- Upasaggato: Trạng thái cản trở.
6- Rogato: Trạng thái bệnh tật.
7- Ābādhato: Trạng thái đau ốm.
8- Gandato: Trạng thái ung nhọt.
9- Sallato: Trạng thái tên độc.
10- Aghato: Trạng thái xấu xa.
11- Atāṇato: Trạng thái không che chở, chống đỡ được.
12- Aleṇato: Trạng thái không ẩn náu được.
13- Asaraṇato: Trạng thái không nương nhờ được.
14- Ādīnavato: Trạng thái tội chướng.
15- Aghamūlato: Trạng thái nguồn gốc của đau khổ.
16- Sāsavato: Trạng thái phiền não trầm luân.
17- Vadhakato: Trạng thái sát hại.
18- Mārāmisato: Trạng thái mồi của ma vương.
19- Jātidhammato: Trạng thái tái sanh là thường.
20- Jarādhammato: Trạng thái già là thường.
21- Byādhidhammato: Trạng thái bệnh là thường.
22- Sokadhammato: Trạng thái sầu não là thường.
23- Paridevadhammato: Trạng thái than khóc là thường.
24- Upāyāsadhammato: Trạng thái thống khổ cùng cực là thường.
25- Saṅkilesikadhammato: Trạng thái ô nhiễm bởi phiền não là thường.
Đó là 25 chi tiết nêu lên trạng thái khổ của danh pháp, sắc pháp.
4.3- Trạng thái vô ngã có 5 loại
1- Anattato: Trạng thái không phải ta, của ta.
2- Parato: Trạng thái khác lạ (không phải ta, của ta).
3- Rittato: Trạng thái trống rỗng.
4- Tucchato: Trạng thái hư huyễn.
5- Suññato: Trạng thái không không.
Đó là 5 chi tiết nêu lên trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp.
Như vậy, 3 trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngãcủa danh pháp, sắc pháp, khi được phân loại ra chi tiết gồm có 40 trạng thái.
Mỗi trạng thái chi tiết của danh pháp, sắc pháp này, được hiện rõ tùy theo căn duyên của mỗi hành giả tiến hành thiền tuệ, và cũng có thể dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não.
(TÌM HIỂU PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ- TK HỘ PHÁP)
[sách nói] SỰ BÌNH AN KHÔNG GÌ LAY CHUYỂN (Thiền sư Ajhan Cha)
SỰ BÌNH AN KHÔNG GÌ LAY CHUYỂN
Thiền sư Ajhan Cha
Người dịch: Sư Tâm Pháp
Một
bài pháp thiền sư Ajhan Cha thuyết cho một vị sư chuyên nghiên cứu pháp học và
nhóm Phật tử tại chùa Wat Pah Pong trong những năm 1960.
Toàn
bộ mục đích của việc nghiên cứu Phật Pháp là để tìm con
đường giải thoát khổ, đạt đến hạnh phúc và bình an. Dù chúng ta nghiên cứu các
hiện tượng thân hay tâm, tâm vương (citta) hay tâm sở (cetasikā), chỉ khi lấy sự
giải thoát khổ làm mục đích cuối cùng thì chúng ta mới ở trên con đường chánh –
không gì khác. Khổ có mặt là bởi vì có nhân, có duyên để nó tồn tại.
17 thg 4, 2015
Tam Tạng Kinh Điển Nguyên Thủy
I. Luật tạng (Vinaya Pitaka - Disciplinary and Procedural Rules) Luật tạng Pali gồm 5 quyển chính:
1. Phân tích giới Tỳ khưu (Bhikkhu vibhanga): 2 tậpTrong Hán tạng còn có các bộ luật khác, dịch từ bộ luật của những bộ phái khác nhau:
Tiểu Bộ Kinh gồm có 15 quyển:Kinh điển Nguyên thủy cũng được ghi chép lại bằng tiếng Sanskrit và truyền về phương Bắc, được dịch sang tiếng Tây Tạng và tiếng Hán qua nhiều thời kỳ khác nhau và từ nhiều bộ phái khác nhau, không đồng nhất. Các bản Sanskrit đã thất lạc, không còn đầy đủ như tạng Pali. Các bộ kinh dịch ra tiếng Hán gọi là các bộ A Hàm (Agama, A Cấp Ma), gồm có 4 bộ chính:
Bình Anson
Perth, Western Australia Tháng 07-1997 (bổ sung: tháng 04-2006)
|
Phụ chú(Unicode Courier New font)
Bản đồ liệt kê các bộ kinh chính yếu trong Tam Tạng Thánh Ðiển
Tam Tạng
|
+-----------------------+--------------------------+
| | |
Luật tạng Thắng Pháp tạng Kinh tạng
| | |
Phân tích giới Pháp tụ |
Ðại phẩm Phân tích |
Tiểu phẩm Chất ngữ |
Tập yếu Nhân chế định |
Biện giải |
Song đối |
Vị trí |
|
+----------+--------------+---------------+--------------+
| | | | |
Trường bộ | Tương ưng bộ | |
Trung bộ Tăng chi bộ |
Tiểu bộ
|
+--------+----+--------+--------+---+-------+---+--------+---+
| | | | | | | | | |
Tiểu bộ tập | | | | | | | | |
Pháp cú | | | | | | | |
Phật tự thuyết | | | | | | |
Phật thuyết như vậy | | | | | |
Kinh tập | | | | |
Thiên cung sự | | | |
Ngạ quỷ sự | | |
Trưởng lão tăng kệ | |
Trưởng lão ni kệ |
Bổn sanh
Nghĩa thích
Vô ngại giải đạo
Thí dụ
Phật sử
Sở hạnh tạng
Tipitaka
|
+-------------------------+-----------------------------+
| | |
Vinaya Pitaka Abhidhamma Pitaka Sutta Pitaka
| | |
Suttavibhanga Dhammasangani |
Mahavagga Vibhanga |
Cullavagga Dhatukatha |
Parivara Puggalapannatti |
Kathavatthu |
Yamaka |
Patthana |
|
+-------------+--------------+---------------+-----------+
| | | | |
Digha Nikaya | Samyutta Nikaya | |
Majjhima Nikaya Anguttara Nikaya |
Khuddaka Nikaya
|
+---------+----+----+-------+----+------+--+-----+------+
| | | | | | | | | |
Khuddakapatha | | | | | | | | |
Dhammapada | | | | | | | |
Udana | | | | | | |
Itivuttaka | | | | | |
Sutta Nipata | | | | |
Vimanavatthu | | | |
Petavatthu | | |
Theragatha | |
Therigatha |
Jataka
Niddesa
Patisambhidamagga
Apadana
Buddhavamsa
Cariyapitaka
|
29 thg 3, 2015
Thật dài là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng
... Thật dài, này Tỷ-kheo, là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng. Không dễ gì tính được là bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm năm, bao nhiêu ngàn năm, bao nhiêu trăm ngàn năm.
18) -- Bạch Thế Tôn, có thể tính được chăng bằng một ví dụ?
19) Thế Tôn đáp:
-- Có thể được, này Tỷ-kheo. Này Tỷ-kheo, ví như có một bao hột đậu mè, nặng hai mươi khàrika, theo đo lường ở nước Kosala. Ví dụ sau một trăm năm, một người lấy ra một lần một hột mè. Này Tỷ-kheo, còn mau hơn là bao hột mè, nặng hai mươi khàrika ấy, theo đo lường của nước Kosala, đi đến tiêu hao, đi đến hao mòn do phương tiện ấy, so sánh (với tuổi thọ) ở địa ngục Abhuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Abhuda bằng một tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda bằng một tuổi thọ ở địa ngục Ababa. Này-Tỷ kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Ababa bằng một tuổi thọ ở địa ngục Atata. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Atata bằng một tuổi thọ ở địa ngục Ahaha. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Ahaha bằng một tuổi thọ ở địa ngục Kumuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Kumuda bằng một tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika bằng một tuổi thọ ở địa ngục Uppala (Hoa sen xanh). Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Uppala bằng một tuổi thọ ở địa ngục Pundarika (Sen trắng). Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Sen trắng bằng một tuổi thọ ở địa ngục Sen hồng. Này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Kokàlika sanh tại địa ngục Sen hồng với tâm hận thù đối với tôn giả Sàriputta và Moggallàna....
(kinh Tương Ưng Bộ, Tập 1, Chương 6, Phẩm thứ nhất, X. Kokàlika)
13 thg 3, 2015
Vepacitti hay Kham Nhẫn
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Ông hãy làm chói sáng pháp luật này bằng cách trong khi xuất gia trong pháp và luật khéo giảng này, hãy thật hành kham nhẫn và nhu hòa.
1) Tại Sàvatthi, Jetavana... (như trên)...
1) Tại Sàvatthi, Jetavana... (như trên)...
2) Thế Tôn thuyết như
sau:
3) -- Thuở xưa, này các
Tỷ-kheo, cuộc chiến xảy ra giữa chư Thiên và các Asura, rất là khốc liệt.
4) Này các Tỷ-kheo,
Vepacitti, vua các A-tu-la gọi các A-tu-la:
"-- Này Thân hữu,
trong cuộc chiến đang khởi lên giữa chư Thiên và loài A-tu-la, rất là khốc
liệt, nếu các A-tu-la thắng và chư Thiên bại, hãy trói Thiên chủ Sakka (hai
tay, hai chân) và thứ năm là cổ và dắt vị ấy đến trước mặt ta, trong thành của
các A-tu-la."
5) Còn Thiên chủ Sakka
gọi chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
"-- Này Thân hữu,
trong trận chiến giữa chư Thiên và các loài A-tu-la, trận chiến rất khốc liệt,
nếu chư Thiên thắng và các loài A-tu-la bại, hãy trói Vepacitti, vua các
A-tu-la hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, và dắt vị ấy lên trước mặt ta,
trong giảng đường Sudhamma (Thiện Pháp)".
6) Nhưng này các Tỷ-kheo
trong trận chiến ấy chư Thiên thắng và các loài A-tu-la bại.
7) Rồi này các Tỷ-kheo,
chư Thiên ở Tam thập tam thiên trói A-tu-la vương Vepacitti, trói hai tay, hai
chân và thứ năm là cổ, rồi dẫn đến trước mặt Thiên chủ Sakka, trong giảng đường
Sudhamma.
8) Tại đây, này các
Tỷ-kheo, vua các A-tu-la, Vepacitti bị trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ,
khi Thiên chủ Sakka đi vào và đi ra khỏi giảng đường Sudhamma, nhiếc mắng, mạ
lị Thiên chủ Sakka với những lời thô ác, độc ngữ.
9) Rồi này các Tỷ -
kheo, người đánh xe Màtali nói lên những bài kệ với Thiên chủ Sakka:
Này Thiên chủ Sakka,
Có phải là Ông sợ,
Hay vì Ông yếu hèn,
Nên mới phải kham nhẫn,
Khi Ông nghe ác ngữ,
Từ Vepacitti?
Có phải là Ông sợ,
Hay vì Ông yếu hèn,
Nên mới phải kham nhẫn,
Khi Ông nghe ác ngữ,
Từ Vepacitti?
10) (Sakka):
Không phải vì sợ hãi,
Không phải vì yếu hèn,
Mà ta phải kham nhẫn,
Với Vepacitti.
Sao kẻ trí như ta,
Lại liên hệ người ngu?
Không phải vì yếu hèn,
Mà ta phải kham nhẫn,
Với Vepacitti.
Sao kẻ trí như ta,
Lại liên hệ người ngu?
11) (Màtali):
Kẻ ngu càng nổi khùng,
Nếu không người đối trị,
Vậy với hình phạt nặng,
Kẻ trí trị người ngu.
Nếu không người đối trị,
Vậy với hình phạt nặng,
Kẻ trí trị người ngu.
12) (Sakka):
Như vậy theo ta nghĩ,
Chỉ đối trị người ngu,
Biết kẻ khác phẫn nộ,
Giữ niệm tâm an tịnh.
Chỉ đối trị người ngu,
Biết kẻ khác phẫn nộ,
Giữ niệm tâm an tịnh.
13) (Màtali):
Hỡi này Vàsana,
Sự kham nhẫn như vậy,
Ta thấy là lỗi lầm,
Khi kẻ ngu nghĩ rằng:
"Vì sợ ta, nó nhẫn"
Kẻ ngu càng hăng tiết,
Như bò thấy người chạy,
Càng hung hăng đuổi dài.
Sự kham nhẫn như vậy,
Ta thấy là lỗi lầm,
Khi kẻ ngu nghĩ rằng:
"Vì sợ ta, nó nhẫn"
Kẻ ngu càng hăng tiết,
Như bò thấy người chạy,
Càng hung hăng đuổi dài.
14) (Sakka):
Hãy để nó suy nghĩ,
Như ý nó mong muốn,
Nghĩ rằng, ta kham nhẫn,
Vì ta sợ hãi nó.
Trong tư lợi tối thượng,
Không gì hơn kham nhẫn.
Người đầy đủ sức mạnh,
Chịu nhẫn người yếu kém,
Nhẫn ấy gọi tối thượng,
Thường nhẫn kẻ yếu hèn.
Sức mạnh của kẻ ngu,
Ðược xem là sức mạnh,
Thời sức mạnh kẻ mạnh,
Lại được gọi yếu hèn.
Người mạnh hộ trì pháp,
Không nói lời phản ứng,
Bị mắng nhiếc, mắng lại,
Ác hại nặng nề hơn.
Bị mắng, không mắng lại,
Ðược chiến thắng hai lần.
Sống lợi ích cả hai,
Lợi mình và lợi người,
Biết kẻ khác tức giận,
Giữ niệm, tâm an tịnh,
Là y sĩ cả hai,
Chữa mình và chữa người,
Quần chúng nghĩ là ngu,
Vì không giỏi Chánh pháp.
Như ý nó mong muốn,
Nghĩ rằng, ta kham nhẫn,
Vì ta sợ hãi nó.
Trong tư lợi tối thượng,
Không gì hơn kham nhẫn.
Người đầy đủ sức mạnh,
Chịu nhẫn người yếu kém,
Nhẫn ấy gọi tối thượng,
Thường nhẫn kẻ yếu hèn.
Sức mạnh của kẻ ngu,
Ðược xem là sức mạnh,
Thời sức mạnh kẻ mạnh,
Lại được gọi yếu hèn.
Người mạnh hộ trì pháp,
Không nói lời phản ứng,
Bị mắng nhiếc, mắng lại,
Ác hại nặng nề hơn.
Bị mắng, không mắng lại,
Ðược chiến thắng hai lần.
Sống lợi ích cả hai,
Lợi mình và lợi người,
Biết kẻ khác tức giận,
Giữ niệm, tâm an tịnh,
Là y sĩ cả hai,
Chữa mình và chữa người,
Quần chúng nghĩ là ngu,
Vì không giỏi Chánh pháp.
15) Này các Tỷ-kheo,
Thiên chủ Sakka ấy đã tự nuôi sống với quả công đức của mình, đã ngự trị và cai
trị chư Thiên Tam thập tam thiên, sẽ nói lời tán thán nhẫn nhục và nhu hòa.
16) Ở đây, này các
Tỷ-kheo, các Ông hãy làm chói sáng pháp luật này bằng cách trong khi xuất gia
trong pháp và luật khéo giảng này, hãy thật hành kham nhẫn và nhu hòa.
Kinh Tương Ưng, Tập Một, Chương
XI, IV.
Vepacitti hay Kham Nhẫn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)