Bạch Thế Tôn, với ai không có lòng tin đối với
thiện pháp, không có biết thẹn đối với thiện pháp, không có
biết sợ đối với thiện pháp, không có tinh tấn đối với thiện
pháp, không có trí tuệ đối với thiện pháp; đối với người ấy, dầu
là đêm hay là ngày, chờ đợi là sự tổn giảm đối với các thiện pháp,
không phải là sự tăng trưởng!
~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/ \*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~\*/~~
VII. Giáo Giới (Tạp 41.21 Vô Tín, Ðại
2, 300c. Biệt Tạp 6.8, Ðại 2, 415b) (S.ii,205)
1) ... Trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc
Lâm).
2) Rồi Tôn giả Mahà Kassapa đi đến Thế Tôn...
3) Thế Tôn nói với Tôn giả Mahà Kassapa đang ngồi
một bên:
-- Này Kassapa hãy giáo giới các Tỷ-kheo! Hãy
thuyết pháp thoại cho các Tỷ-kheo! Ta hay Ông hãy giáo giới các
Tỷ-kheo! Ông hay Ta hãy thuyết pháp thoại cho các Tỷ-kheo!
4) -- Bạch Thế Tôn, khó nói là chúng Tỷ-kheo
hiện tại. Họ ở trong tình trạng khó nói với họ. Họ không kham
nhẫn, họ không kính trọng lời giáo giới!
5) Bạch Thế Tôn, với ai không có lòng tin đối với
thiện pháp, không có biết thẹn đối với thiện pháp, không có
biết sợ đối với thiện pháp, không có tinh tấn đối với thiện
pháp, không có trí tuệ đối với thiện pháp; đối với người ấy, dầu
là đêm hay là ngày, chờ đợi là sự tổn giảm đối với các thiện pháp,
không phải là sự tăng trưởng!
6) Ví như mặt trăng, bạch Thế Tôn, trong thời kỳ
tối trời, dầu là đêm hay là ngày, hình sắc tổn giảm dần, hình tròn tổn
giảm dần, ánh sáng tổn giảm dần, đường quỹ đạo nó đi tổn giảm dần. Cũng
vậy, bạch Thế Tôn, đối với ai không có lòng tin đối vói thiện pháp,
không có biết thẹn đối với thiện pháp, không biết sợ đối với
thiện pháp, không có tinh tấn đối với thiện pháp, không có trí
tuệ đối với thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay là ngày, chờ
đợi là sự tổn giảm đối với các thiện pháp, không phải là sự tăng
trưởng!
7) Người không có lòng tin, bạch Thế Tôn, tức có
nghĩa là tổn giảm. Người không biết thẹn, bạch Thế Tôn, tức có
nghĩa là tổn giảm. Người không biết sợ, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa
là tổn giảm. Người lười biếng, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là tổn
giảm. Người ác trí tuệ, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là tổn giảm.
Người phẫn nộ... Người sân hận, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là tổn
giảm. Nếu vị Tỷ-kheo không có giáo giới, bạch Thế Tôn, tức có
nghĩa là tổn giảm.
8) Với ai, bạch Thế Tôn, có lòng tin đối với
thiện pháp, có biết thẹn đối với thiện pháp, có biết sợ đối
với thiện pháp, có tinh tấn đối với thiện pháp, có trí tuệ đối
với thiện pháp; với vị ấy, dầu là đêm hay là ngày, chờ đợi sự tăng
trưởng đối với thiện pháp, không phải sự tổn giảm.
9) Ví như mặt trăng, bạch Thế Tôn, trong thời kỳ
sáng trời, dầu là đêm hay là ngày, hình sắc tăng trưởng dần, hình tròn
tăng trưởng dần, ánh sáng tăng trưởng dần, quỹ đạo nó đi tăng trưởng
dần. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, với ai có lòng tin đối với thiện pháp,
có biết thẹn...có biết sợ... có tinh tấn... có trí tuệ đối với
thiện pháp; với vị ấy, dầu là đêm hay là ngày, chờ đợi là sự tăng
trưởng đối với thiện pháp, không phải là tổn giảm.
10) Người có lòng tin, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa
là không tổn giảm. Người có biết thẹn, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa
là không tổn giảm. Người có biết sợ, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là
không tổn giảm. Người tinh cần, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là không tổn
giảm. Người không phẫn nộ, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là không tổn
giảm. Người không sân hận, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là không tổn
giảm. Có những Tỷ-kheo giáo giới, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là
không tổn giảm.
11) -- Lành thay, lành thay, này Kassapa! Với ai, này
Kassapa, không có lòng tin đối với thiện pháp... không có biết thẹn...
không có biết sợ... không có tinh tấn... không có trí tuệ đối với
thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay là ngày, chờ đợi là sự tổn
giảm trong thiện pháp, không phải là tăng trưởng.
12) Ví như mặt trăng, này Kassapa, trong thời kỳ tối
trời, dầu là đêm hay là ngày, hình sắc tổn giảm dần, hình tròn tổn giảm
dần, ánh sáng tổn giảm dần, quỹ đạo nó đi tổn giảm dần. Cũng vậy, này
Kassapa, với ai không có lòng tin đối với thiện pháp, không có biết
thẹn... không có biết sợ... không có tinh tấn... không có trí tuệ
đối với thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay ngày, chờ đợi là
sự tổn giảm đối với thiện pháp, không phải là sự tăng trưởng.
13) Người không có lòng tin, này Kassapa, tức có nghĩa
là tổn giảm. Người không biết thẹn... Người không biết sợ... Người
biếng nhác... Người ác trí tuệ... Người phẫn nộ... Người sân hận,
này Kassapa, tức có nghĩa là tổn giảm. Không có Tỷ-kheo giáo giới, này
Kassapa, tức có nghĩa là tổn giảm.
14) Với ai, này Kassapa, có lòng tin đối với thiện
pháp... có biết thẹn... có biết sợ... có tinh tấn.. có trí tuệ
đối với thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay ngày, chờ đợi là
sự tăng trưởng đối với thiện pháp, không phải là tổn giảm.
15) Ví như mặt trăng, này Kassapa, trong thời kỳ sáng
trời, dầu là đêm hay ngày, hình sắc tăng trưởng dần, hình tròn tăng
trưởng dần, ánh sáng tăng trưởng dần, quỹ đạo nó đi tăng trưởng dần.
Cũng vậy, này Kassapa, ai có lòng tin đối với thiện pháp, có biết
thẹn... có biết sợ... có tinh tấn... có trí tuệ là sự tăng trưởng
đối với thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay ngày, chờ đợi là
sự tăng trưởng đối với thiện pháp, không phải là sự tổn giảm.
16) Người có lòng tin, này Kassapa, tức có nghĩa là
không tổn giảm. Người biết thẹn... Người biết sợ... Người tinh
tấn... Người có trí tuệ... Người không phẫn nộ... Người không sân hận,
này Kassapa, tức có nghĩa là không tổn giảm. Có Tỷ-kheo giáo giới, này
Kassapa, tức có nghĩa là không tổn giảm.
Tương Ưng Bộ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét