Những vị Tỳ-kheo hay cãi cọ xứ Kosambi (Tích truyện Pháp cú số 6)
......
Nhưng vì đang giữa mùa an cư, các
Tỳ-kheo không thể đến gặp Phật, và họ kiết hạ trong sự thiếu thốn, trong khi
Phật thì an vui, được voi hầu hạ. Con voi này là voi đầu đàn đã rời bầy và vào
rừng với lý do độc nhất là muốn được an vui. Nó nói:
- Tôi sống ở đây bị voi cái, voi con,
voi trẻ làm phiền nhiễu. Ðầu ngọn cỏ tôi thường ăn bị chúng nhai nát, chúng ăn
hết nhánh cây này đến nhánh nọ khi tôi vừa bẻ xuống, chúng quấy đục nước tôi
uống. Khi tôi xuống nước và lên bờ, voi cái đến cọ xát vào thân tôi. Có lẽ tôi
nên rời đàn và sống một mình.
Rồi con voi đầu đàn bỏ bầy, đến gần Pàerileyyaka, vào rừng Bảo Hộ, dưới gốc
cây Sala đẹp đẽ, ngay nơi Thế Tôn
ngụ, thân cận với Ngài. Ðến trước Thế Tôn, nó đảnh lễ Ngài, rồi nhìn quanh quất
tìm chổi, không thấy chổi, nó bèn đạp cây Sala
phía dưới và dùng vòi quật phía trên cho ngã xuống rồi lấy một nhánh
cây quét đất. Sau đó, nó lấy vòi quấn bình nước mang đi lấy nước. Vài khi cần
đến nước nóng, nó nấu nước nóng (Sao có thể được chứ?). Ðầu tiên nó dùng vòi
kéo dùi lửa cho bật lửa ra và nhen củi chà vào. Nó nhóm lửa như thế và nung
những hòn đá nhỏ rồi dùng một cây gậy lăn vào một lõm đá (có nước). Xong nó hạ
vòi xem nước đủ nóng chưa, rồi đến cúi đầu trước Phật. Thấy voi đến, đức Phật
hỏi:
- Nước nóng chưa, Pàrileyyaka?
Và phật đến đó tắm. Sau đó voi dâng
Phật những loại trái cây rừng.
Ðến giờ Phật vào làng khất thực, voi
lấy y bát của Phật đặt lên đỉnh đầu và đi theo Ngài. Ðến ven làng, Phật bảo voi
đưa trả y bát:
- Pàrileyyaka!
Chú không đi xa hơn được! Hãy giao y bát cho Ta.
Phật vào làng và voi đứng đó đợi Ngài
trở lại, tiến tới đón Ngài, để y bát lên đầu như lúc trước và đem về chỗ Phật ngụ,
hầu hạ Ngài như thường lệ rồi quạt hầu Phật với một nhánh cây. Ban đêm, để ngừa
thú dữ, nó dùng vòi nắm một cây gậy lớn tự nhủ: "Ta sẽ bảo hộ Phật".
Và đi tới lui trong khu rừng cho tới khi mặt trời mọc. (Từ đó khu rừng được gọi
là rừng Bảo Hộ). Buổi sáng, mặt trời lên, voi lấy nước cho Phật rửa mặt, và
theo cách như đã nói trên, nó làm tròn mọi bổn phận khác.
Bấy giờ, một con khỉ thấy cử chỉ và
hành động mỗi ngày của voi, làm những bổn phận nhỏ nhặt hầu Phật, bèn phát tâm
sẽ làm giống như vậy. Một hôm, trong lúc chạy nhảy tình cờ nó gặp một tổ mật
trên cây không có ong. Nó bẻ cành cây xuống, cầm tổ mật còn nguyên trên cành
cây, hái một lá chuối, đặt tổ ong trên lá và mang dâng Phật. Ðức Phật nhận lấy.
Khỉ trố mắt xem Phật có dùng không và ngạc nhiên thấy Phật không ăn. Khỉ thắc
mắc không biết có chuyện gì đây, bèn lật qua lật lại tổ ong, vừa xem xét cẩn
thận, và khám phá có vài trứng sâu. Nhẹ nhàng lấy trứng sâu ra, khỉ lại dâng tổ
mật lên Phật và Ngài hoan hỷ độ. Khỉ vui sướng chuyền từ cành này sang cành
khác và nhảy nhót hân hoan vô kể. Nhưng đâu ngờ những nhánh cây khỉ vừa nắm và
đạp lên bỗng gẫy lìa. Khỉ rơi xuống một cọc cây, bị đâm xuyên người và chết tức
khắc. Vì đặt niềm tin trọn vẹn vào Phật, nó được tái sinh vào cõi trời Ba mươi
ba, trong một cung điện bằng vàng cao ba mươi dặm với một đoàn gồm một ngàn
thiên nữ hầu cận.
Cả vùng Diêm-phù-đề đều biết rằng đức
Phật đang ngụ trong rừng Bảo Hộ, được voi đầu đàn phụng sự. Từ thành Xá-vệ, ông
Cấp Cô Ðộc và bà Tỳ-xá-khư - một tín nữ lỗi lạc - cùng một số nhân vật tiếng
tăm khác đã gởi lời thỉnh nguyện đến ngài A-nan xin được đặc ân gặp đức Thế
Tôn. Năm trăm Tỳ-kheo ngụ ở ngoài thành mãn mùa an cư cũng thỉnh cầu được nghe
pháp từ kim khẩu Thế Tôn lâu nay vắng tiếng.
Trưởng lão A-nan bèn hướng dẫn các Tỳ-kheo
đến rừng Bảo Hộ. Với đức tính chu đáo của một thị giả, Ngài không dám đến gặp
Phật với đám đông Tỳ-kheo vì biết Như Lai đã độc cư suốt ba tháng. Vì thế, Ngài
để các Tỳ-kheo chờ ở bên ngoài và một mình đi đến gặp Phật. Khi voi Pàrileyyaka thấy Trưởng lão, nó quấn gậy
xông tới. Ðức Phật quay nhìn và bảo voi:
- Trở lại! Pàrileyyaka! Ðừng rượt ông ta. Ðó là thị giả của Như Lai.
Voi lập tức ném gậy đi và thỉnh Trưởng
lão đưa y bát, Trưởng lão từ chối. Voi thầm nghĩ nếu ông ta biết luật sẽ không
đặt pháp cụ của mình trên tảng đá Phật thường ngồi. Voi đã quá lo xa vì Trưởng
lão A-nan đã đặt y bát trên đất (những người biết luật không bao giờ đặt pháp
cụ cá nhân lên chỗ ngồi hoặc giường của bậc tôn túc). Rồi Trưởng lão đảnh lễ
Phật, ngồi xuống một bên. Phật hỏi:
- Ông đến một mình thôi sao?
- Bạch Thế Tôn, con đến với năm trăm
Tỳ-kheo.
- Họ ở đâu?
- Con chưa hiểu ý Phật thế nào, nên để
họ đứng ngoài và vào đây một mình.
- Bảo họ vào!
Trưởng lão y lời. Ðức Phật đáp lại lời
chào hỏi của các Tỳ-kheo một cách thân tình. Các Tỳ-kheo thưa:
- Bạch Thế Tôn, Ngài là một vị Phật quý
phái, một ông hoàng mảnh mai. Chắc Ngài đã chịu đựng nhiều gian khổ, đứng và
ngồi ở đây một mình suốt ba tháng trời. Dĩ nhiên không có ai hầu Phật những
việc chánh và phụ, không có ai dâng nước rửa mặt hay làm mọi việc khác cho
Ngài.
Ðức Phật trả lời:
- Này các Tỳ-kheo! Voi Pàrileyyaka đã làm hết những việc ấy cho
Ta. Nếu ai có được bạn đồng hành như nó thì cuộc sống độc cư tốt đẹp. Nếu như
không có được, thì cuộc sống độc cư vẫn tốt đẹp hơn.
Nói xong, Thế Tôn đọc ba câu Pháp Cú
sau trong phẩm Voi:
Nếu được bạn hiền trí
Ðáng sống chung, hạnh lành,
Nhiếp phục mọi hiểm nguy,
Hoan hỷ sống chánh niệm.
Ðáng sống chung, hạnh lành,
Nhiếp phục mọi hiểm nguy,
Hoan hỷ sống chánh niệm.
Không gặp bạn hiền trí,
Ðáng sống chung, hạnh lành,
Như vua bỏ nước bại,
Hãy sống riêng cô độc,
Như voi sống rừng voi.
Ðáng sống chung, hạnh lành,
Như vua bỏ nước bại,
Hãy sống riêng cô độc,
Như voi sống rừng voi.
Tốt hơn sống một mình,
Không người ngu kết bạn,
Ðộc thân, không ác hạnh,
Sống vô tư, vô lự,
Như voi sống rừng voi.
Không người ngu kết bạn,
Ðộc thân, không ác hạnh,
Sống vô tư, vô lự,
Như voi sống rừng voi.
Ngay khi Thế Tôn kết thúc bài kệ, năm
trăm Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.
Trưởng lão A-nan bèn đưa lời thỉnh cầu
của ông Cấp Cô Ðộc và những người khác.
- Bạch Phật, năm mươi triệu thánh đệ tử
do Cấp Cô Ðộc dẫn đầu mong mỏi Phật trở về.
Phật chuẩn y:
- Tốt lắm! Hãy mang y bát.
Và Phật đi ra khỏi rừng. Voi thấy thế
liền đến và đứng chéo chân giữa đường. Các Tỳ-kheo thấy lạ nên hỏi, và được
Phật đáp:
- Này các Tỳ-kheo, nó muốn cúng dường
các ông. Lâu nay nó đã phục vụ Ta, không nên làm tổn thương tình cảm của nó,
hãy trở lại các Tỳ-kheo!
Phật và các Tỳ-kheo trở lại. Voi vào
rừng hái lượm chuối và những trái cây khác gom lại, và ngày hôm sau dâng lên
các Tỳ-kheo. Năm trăm Tỳ-kheo không thể nào dùng hết. Thọ thực xong đức Phật ôm
y bát đi ra khỏi rừng. Voi lại xen vào giữa các Tỳ-kheo và đứng chéo chân trước
Phật. Các Tỳ-kheo không thể đoán được ý nghĩa, liền hỏi Phật và được trả lời: - Các Tỳ-kheo! Sau khi chào từ giã các ông nó
muốn Ta trở lại.
Và hướng về voi, Phật bảo:
- Này Pàrileyyaka!
Ta sẽ đi bây giờ, không trở lại nữa! Trong kiếp này, ngươi không có hy vọng vào
được các tầng thiền, hay đạt đến trí tuệ, hay chứng Thánh quả. Hãy dừng lại!
Voi nghe Thế Tôn nói rút vòi vào miệng,
từ từ lùi ra sau, vừa đi vừa khóc (nếu nó thỉnh được Phật ở lại, nó sẽ săn sóc
Phật như trước đây cho đến hết đời). Ðức Thế Tôn tiếp tục đi, đến ven làng Ngài
dừng lại bảo voi:
- Pàrileyyaka!
Ði xa hơn nữa ngươi sẽ không được an thân. Dân cư rất nguy hiểm cho ngươi. Hãy
dừng lại!
Voi dừng lại nơi đó và khóc. Ðức Phật
bước đi, và khi vừa khuất tầm mắt, voi vỡ tim và chết. Vì đặt hết niềm tin vào
Như Lai, voi được tái sinh vào cõi trời ba mươi ba, trong một cung điện bằng
vàng lớn ba mươi dặm, có ngàn thiên nữ hầu cận. Voi tên là trời Pàrileyyaka.
Dọc đường, Phật ghé vào Kỳ Viên. Các
Tỳ-kheo xứ Câu-thâm nghe Phật về Xá-vệ liền đến sám hối. Vua Kosala nghe tin cũng đến chỗ Phật và thưa:
- Bạch Thế Tôn, con sẽ không cho các
Tỳ-kheo này vào nước con.
Phật khuyên ngăn vua:
- Ðại vương, những Tỳ-kheo này là người
tốt, chỉ vì họ tranh cãi lẫn nhau nên không vâng lời Ta. Giờ đây họ đến để sám
hối. Hãy cho họ vào, đại vương!.
Ông Cấp Cô Ðộc cũng bạch với Phật là
không cho các Tỳ-kheo xứ Câu-thâm vào tinh xá. Nhưng Phật không đồng ý và ông
ta đành im lặng. Bấy giờ, các Tỳ-kheo ấy đến Xá-vệ. Thế Tôn ra lệnh chuẩn bị
chỗ ở riêng biệt cho họ. Những Tỳ-kheo khác không đứng hay ngồi chung với họ,
lần lượt từng người đến hỏi Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn! Những Tỳ-kheo xứ
Câu-thâm hay tranh cãi đang ở đâu?
Thế Tôn chỉ họ và nói:
- Họ đó! Họ đó!
Những Tỳ-kheo từng người chỉ về phía họ
và bàn tán với nhau đến nỗi họ xấu hổ không dám ngẩng đầu lên. Rồi họ gieo mình
dưới chân Phật xin sám hối. Phật dạy:
- Này các Tỳ-kheo! Tội lỗi các ông đã
phạm nặng nề biết bao! Sau khi được nhận làm Tỳ-kheo dưới sự lãnh đạo của một
vị Phật, lại cãi lời mặc dù Ta đã cố khuyên giải đủ điều. Ngay cả bậc trí giả
vẫn nghe kỹ lời dạy bảo của cha mẹ trước khi chết. Họ không dám cãi lời khi cha
mẹ từ giã cuộc đời, và sau đó họ được giao quyền lãnh đạo cả hai vương quốc.
Rồi đức Phật lặp lại chuyện Bổn Sanh Kosambika một lần nữa, và kết luận:
- Này các Tỳ-kheo! Hoàng tử Dìghavu, ngay khi cha mẹ mất mạng, ông vẫn
không dám cãi lời dạy bảo, sau đó ông cưới con gái của vua Phạm-ma-đạt rồi trị
vì cả hai vương quốc Kàsi và Kosala. Còn các ông vì không vâng lời Ta
nên đã phạm lỗi nặng.
Và đức Phật nói câu Pháp Cú:
(6) Và người khác không biết,
Chúng ta đây bị bại.
Chỗ ấy ai hiểu được,
Tranh luận được lắng êm.
Chúng ta đây bị bại.
Chỗ ấy ai hiểu được,
Tranh luận được lắng êm.
Nghe xong Pháp Cú này, các Tỳ-kheo ở đó
liền đắc quả Dự lưu.
Tích truyện Pháp Cú
Thiền viện Viên Chiếu
Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugene Watson Burlingame
Thiền viện Viên Chiếu
Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugene Watson Burlingame
Phẩm 1: Song yếu
5. Những Vị Tỳ Kheo Hay Cãi Cọ Ở Xứ Câu Thâm (Kosambi)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét