29 thg 1, 2014

Kinh Tam Bảo (RATANA SUTTA) (PALI text and mp3)

Ratana Sutta ( Pali- Chư Tăng Thái tụng)

Kinh Châu Báu (Ratana Sutta) Tiếng Việt
Dẫn nhập

1. Nhớ lại tất cả những Đức hạnh này của Đức Phật chẳng hạn như:

Khởi đầu từ thời Phát Nguyện Cao Quý của Ngài ( pháp nguyện trở thành vị Phật Tối Thượng trong sự hiện diện của Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara), Đức Như lai đã hoàn thành tất cả 30 viên mãn (Ba la Mật), đó là: mười Ba la Mật thông thường, mười Ba la Mật siêu việt (Upaparamitas), và mười Chân Đế Ba la Mật (paramattha paramitas); năm Đại hy sinh; ba cách Thực hành, đó là thực hành vì hạnh phúc của thế gian, vì hạnh phúc của thân bằng quyến thuộc, và vì lợi ích của việc thành tựu Phật Quả của Ngài, và việc Ngài tự nhiên được thụ thai trong bụng mẹ ở kiếp cuối cùng này; sự đản sinh của Ngài; sự Đại xả; kinh nghiệm của sự khổ hạnh; sự hàng phục ( năm loại) Tử thần (Ma vương) khi ngồi dưới gốc cây Bồ Đề; sư Chứng ngộ Trí Tuệ Toàn Giác; việc thuyết giảng Kinh chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavatthana sutta); và chín quy luật siêu xuất thế gian: Trưởng lão A Nan tôn kính đã thực hành tụng niệm Kinh bảo hộ suốt ba đêm, trong ba bức tường thành Tỳ Xá Ly.

Khi đã phát khởi sự cảm thông sâu sắc như tôn giả A Nan đã làm, 

2. Sự vinh quang của những đức hạnh đó đã được chấp nhận bởi các vị thần tụ hội từ hàng tỷ tỷ thế giới, và trong thành Tỳ Xá Ly.

3. Bởi năng lực của những đức hạnh đó ba loại tai hoạ đã đột phát là dịch bệnh, phi nhân và đói kém cũng được tẩy trừ một cách nhanh chóng. Xin hãy đến đây! Chúng ta hãy tụng niệm Kinh bảo hộ này

4. Bất cứ chúng sinh nào đã tụ hội ở đây, dù trên thiên giới hay dưới thế gian, cầu mong tất cả chúng sanh đều được an bình, và cũng xin chú tâm lắng nghe những lời này

II. Vì thế, hỡi các Ngài, xin hãy lắng nghe. Xin ban rải lòng từ ái đến tất cả các chúng sanh. Cả ngày lẫn đêm, họ cúng dường các Ngài. Vì thế, xin khéo léo bảo hộ họ với sự tận tâm

III. Bất cứ kho báu nào ở đây, dù trong thế gian hay ngoài thế gian; bất kỳ châu báu nào trong những cõi trời; không thứ gì sánh được với Đấng Toàn Giác. Châu báu này (sự thiêng liêng) chính là Đức Phật Giác Ngộ. Bởi sự xác quyết và Chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

IV. Sự An định, giải thoát và bất tử linh thánh đó đã được Đấng Thánh giả- Thích Ca thiền định viên mãn chứng ngộ. Không gì sánh được với Giáo pháp này. Châu báu này hiện diện trong Pháp. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

V. Đấng Giác ngộ Tối Thượng đã tán thán con đường thanh tịnh khi gọi nó là sự Thiền định khiến phát sinh kết quả tức thì không thể sai lầm. Không gì sánh được với sự thiền định như thế. Quả thực Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn nhất.

VI. Tám vị được những bậc linh thánh tán thán; các ngài tạo thành bốn cặp, là đệ tử của Đức Thế Tôn, các ngài xứng đáng được cúng dường. Các tặng vật được cúng dường cho ngài sẽ phát sinh. Kết quả tốt lành. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý, cầu mong được đại lạc viên mãn.

VII. Những người nỗ lực chuyên cần với tâm vững vàng và kiên cố, được giải thoát trong thời gian Truyền pháp của Đức Phật Cồ Đàm. Họ thành tưu trạng thái tối thượng đạt được sự bất tử. Họ thụ hưởng an bình viên mãn một cách tự nhiên. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

VIII. Như cột trụ chôn sâu trong đất đứng bất động trước những cơn gió lộng khắp bốn phương, vì thế ta cũng tuyên bố rằng người thấy những chân lý cao quý (Tứ Diệu Đế) nhờ trí tuệ phân biệt là người chánh trực không thể lay chuyển. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

IX. Những người phát triển Tứ Diệu Đế đã được Đấng Trí Tuệ Thâm sâu thuyết giảng rõ ràng, mặc dù họ có thể sao nhãng thái quá; nhưng vẫn không bị rơi vào cõi thứ tám (trong cõi Kamabhumi) (Dục giới). Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

X. Đồng thời với sự thành tựu Thiền quán của họ, ba khía cạnh của tâm thức được từ bỏ, đó là ngã kiến, nghi ngờ và tà kiến trong các nghi lễ và bất kỳ sự suy đồi nào khác nếu có ( giới cấm thủ).

XI. Họ cũng thoát khỏi bốn tội căn bản, và không còn vi phạm sáu trọng tội. Châu báu (sự thiêng liêng) này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

XII. Mặc dù có thể họ vẫn còn làm hành vi bất thiện thuộc thân, khẩu hay ý, nhưng họ không thể che dấu nó. Bởi chính vì nó đã được bày lọ ra nên sự che đậy như thế là điều không thể đối với đã thấy được con đường. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn

XIII. Giống như vẻ rực rỡ của khu rừng đầy hoa nở trong cái nắng nóng ban đầu của những tháng hè ấm áp, mặc dù thế sự huy hoàng của thánh pháp đã được tuyên thuyết. Vì sự thành tựu tối thượng dẫn đến Niết bàn. Châu báu này hiện diện trong Đức Phật. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

XIV. Đấng Quang vinh, bậc thấu biết sự quang vinh, ban phát và đem lại sự quang vinh, và là Giáo pháp quang vinh đã được thuyết giảng vô song. Châu báu này hiện diện trong Đức Phật. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

XV. Nghiệp trước của họ chấm dứt và nghiệp mới không còn phát sinh. Lòng tham muốn sự hình thành trong tương lai bị lui bước. Chủng tử tái sanh được chấm dứt và họ không còn muốn tái sanh nữa. Như ngọn lửa đèn lụi tắt, các bậc hiền minh nhập Niết Bàn. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

XVI. Bất cứ chúng sanh nào đã tụ hội tại đây, dù trên thiên giới hay dưới thế gian, xin hãy đến đây, chúng ta hãy kính lễ Đức Phật (Đấng Toàn Giác), bậc được trời và người tôn kính (Thiên Nhân Sư). Cầu mong được hưởng đại lạc viên mãn.

XVII. Bất cứ chúng sinh nào đã tụ hội tại đây dù trên thiên giới hay dưới thế gian, xin hãy đến đây, chúng ta hãy kính lễ Pháp (Giáo lý); (Đấng Toàn Giác), bậc được trời và người tôn kính.

XVIII. Bất cứ chúng sanh nào đã tụ hội tại đây dù trên thiên giới hay dưới thế gian, xin hãy đến đây, chúng ta hãy kính lễ Tăng Đoàn; ( Đấng Toàn Giác), bậc được trời và người tôn kính. Cầu mong được đại lạc viên mãn. 

Kết thúc Kinh Tam Bảo (Ratanasutta).

CẨM NANG TỤNG NIỆM CỦA PHẬT TỬ MIẾN ĐIỆN


NGUYÊN TÁC:

HAND BOOK OF BUDDHIST RECITATION

RATANASUTTĀRAMBHO
TỤNG BỐ CÁO KINH TAM-BẢO
Paṇidhānato paṭṭhāya Tathāgatassa
dasa pāramiyo dasa upapāramiyo
dasa paramatthapāramiyo
pañca mahāpariccāge tisso cariyā
pacchimabbhave gabbhāvakkantiṃ jātiṃ
abhinikkhamanaṃ padhānacariyaṃ
bodhipallaṅke māravijayaṃ.
Chúng ta nên đem lòng từ thiện, (đối với tất cả chúng sanh) như Đại đức ĀNANDA, đã suy tưởng đều đủ các công đức của Phật, từ khi mới phát nguyện thành bậc Chánh-đẳng Chánh-giác, là tu 10 phép Ba-rá-mi (PĀRAMĪ) [3], 10 phép Ú- bá-ba-rá-mi (UPAPĀRAMĪ) [4], 10 phép Bá-rá-mát thá-ba-rá-mi (PARAMATTHAPĀRAMĪ) [5] , 5 phép đại thí [6], 3 phép hành [7].
Sabbaññutaññāṇappaṭivedhaṃ
nava lokuttaradhammeti sabbepime
buddhaguṇe āvajjitvā Vesāliyā tīsu
pākārantaresu tiyāmarattiṃ parittaṃ
karonto āyasmā Ānandatthero viya
kāruññacittaṃ upaṭṭhapetvā.
Tư cách giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót.
Tư cách ra đời.
Tư cách xuất gia.
Tư cách tu khổ hạnh.
Tư cách cảm thắng Ma Vương.
Tư cách chứng quả Chánh-Biến-Tri trên Bồ-đoàn.
Chín Phép Thánh.
Suy tưởng xong rồi; Đại đức ĀNANDA tụng kinh PARITTA 
[8] cả đêm, trọn đủ 3 canh, tại trong 3 vòng thành VESĀLĪ .
Koṭisatasahassesu,
Cakkavāḷesu devatā,
Yassānampaṭiggaṇhanti,
Yañca Vesāliyaṃ pure,
Rogā manussadubbhikkha-
Sambhūtantividhaṃ bhayaṃ,
Khippamantaradhāpesi,
Parittantambhaṇāma he.
Tất cả Chư Thiên trong mười muôn triệu thế giới Ta-Bà, đều được thọ lãnh oai lực kinh PARITTA. Kinh PARITTA đã làm cho 3 điều kinh sợ phát sanh, là: Bịnh tật, Phi nhơn và sự Đói khát trong thành VESĀLĪ được mau tiêu diệt. Chư Thiên nầy, nay chúng tôi tụng kinh PARITTA ấy.
 -ooOoo-
RATANASUTTA
KINH TAM-BẢO
Yānīdha bhūtāni samāgatāni,
Bhummāni vā yāniva antalikkhe.
Hạng Bhūta là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta là Chư Thiên ngự trên hư không thế giới, mà đến hội họp nơi đây.
Sabbeva bhūtā sumanā bhavantu,
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ.
Cầu xin tất cả hạng Bhūta ấy, mở lòng từ thiện, và đem lòng thành kính mà nghe Phật ngôn.
Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe,
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya,
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ.
Tất cả chư bhūta được nghe kinh PARITTA rồi, nên mở lòng Bác ái đối với chúng sanh, thuộc về nhơn loại, là những người hằng đem của bố thí đêm ngày không dứt.
Tasmā hi ne rakkhatha apamattā,
Yaṃkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā,
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ,
Na no samaṃ atthi Tathāgatena.
Vì đó, các Ngài chẳng nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì những người ấy. Tài sản trong thế gian nầy, hoặc trong thế giới khác hoặc trân châu quý trọng trên Thiên thượng. Cả tài sản và trân châu ấy, cũng chẳng sánh bằng Đức Như Lai.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ.
Đức Phật nầy như trân châu quý báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ,
Yadajjagā Sakyamunī samāhito.
Đức Giáo-chủ SAKYAMUNI là bậc thanh tịnh, đại ngộ các pháp diệt trừ phiền não, dứt khỏi tình dục, là Pháp bất diệt, là Pháp cao thượng.
Na tena dhammena samatthi kiñci.
Chẳng có chi sánh bằng Pháp ấy.
Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ.
Pháp-Bảo nầy như trân châu quý báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Yaṃ Buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ.
Đức Phật cao thượng hằng khen ngợi Pháp Thiền định (SAMĀDHI) là Pháp trong sạch.
Samādhimānantarikaññamāhu.
Các bậc Trí tuệ, đã giảng giải về Pháp Chánh Định là Pháp sanh quả theo thứ tự.
Samādhinā tena samo na vijjati.
Thiền định khác chẳng thể sánh bằng.
Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ.
Pháp-Bảo nầy như trân châu quý báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasatthā,
Cattāri etāni yugāni honti,
Te dakkhiṇeyyā Sugatassa sāvakā.
Những hạng tu hành có 8 bậc, mà các Thiện trí thức đã ngợi khen, các bậc ấy đều là Thinh Văn, đệ tử của Đức SUGATO [9], các Ngài đáng thọ lãnh những vật thí, của người tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.
Etesu dinnāni mahapphalāni.
Những sự bố thí đến các bậc (DAKKHIṆEYYA PUGGALĀ) [10], là việc bố thí được kết quả rất nhiều hạnh phúc.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Ye suppayuttā manasā daḷhena,
Nikkāmino Gotamasāsanamhi.
Các bậc Thánh nhơn trong giáo Pháp của Đức Chánh-Biến-Tri hiệu GOTAMA [11], đã hành theo lẽ chánh rồi có lòng bền chắc, chẳng còn ái dục.
Te pattipattā amataṃ vigayha,
Laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā.
Các bậc Thánh nhơn ấy đã chứng quả A-LA -HÁN, đã nhập Niết-bàn, đã tắt lửa phiền não, và đã hưởng đạo-quả rồi.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Yathindakhìlo paỉhaviư sito siyà,
Catubbhi vātebhi asampakampiyo.
Cột cừ đã đóng cứng dưới đất, dầu gió 4 phương cũng không lay động, thế nào.
Tathūpamaṃ sappurisaṃ vadāmi,
Yo ariyasaccāni avecca passati.
Người hay suy xét thấy các Pháp Diệu-Đế, Như Lai gọi người ấy là bậc Thiện Trí Thức, hạng không tham nhiễm các Pháp thế gian, ví như cột cừ kia vậy.
Idampi sanghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Ye ariyasaccāni vibhāvayanti.
Các bậc Thánh nhơn thấy rõ các Pháp Diệu-Đế.
Gambhīrapaññena sudesitāni,
Kiñcāpi te honti bhusappamattā,
Na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti.
Mà Đức Như Lai có Trí tuệ thậm-thâm đã giảng dạy đứng đắn. Các bậc Thánh nhơn ấy dầu có dể duôi, cũng chẳng thọ sanh đến kiếp thứ 8, là chẳng luân hồi quá 7 kiếp.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Sahāvassa dassanasampadāya,
Tayassu dhammā jahitā bhavanti,
Sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca,
Sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci.
Bậc được chứng đạo-quả Tu-Đà-Hườn, thì đã dứt khỏi 3 phép chướng ngại thường có là Thân Kiến, Hoài Nghi và Giới Cấm Thủ.
Catūhapāyehi ca vippamutto,
Cha cābhiṭhānāni abhabbo kātuṃ
Bậc Tu-Đà-Hườn đã thoát khỏi cả 4 đường dữ, không còn phạm 6 điều ác, là 5 tội đại nghịch, và cách xu hướng theo ngoại-đạo.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Kiñcāpi so kammaṃ karoti pāpakaṃ,
Kāyena vācāyuda cetasā vā,
Abhabbo so tassa paṭicchadāya.
Nếu bậc Tu-Đà-Hườn vô tâm phạm điều tội lỗi do thân, khẩu, ý, các Ngài cũng chẳng giấu giếm.
Abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā.
Nết hạnh của bậc đã thấy đạo quả Niết-bàn, bậc không có thể giấu kín nghiệp dữ, mà Đức Phật đã giảng dạy rồi.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ.
Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Vanappagumbe yathā phussitagge,
Gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe,
Tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi,
Nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya.
Pháp cao thượng mà đức Chánh-Biến-Tri đã giảng giải, là Pháp có thể tiếp dẫn chúng sanh đến Niết-bàn, cho được sự lợi ích cao thượng. Pháp ấy ví như cây trong rừng, sanh chồi trong đầu mùa hạn.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ.
Đức Phật nầy như trân châu quí báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Varo varaññū varado varāharo.
Đức Chánh-Biến-Tri là bậc cao thượng, Ngài suốt thông Pháp cao thượng, Ngài thí Pháp cao thượng, Ngài đem đến Pháp cao thượng.
Anuttaro dhammavaraṃ adesayi.
Ngài là bậc vô thượng, đã diễn thuyết các pháp cao thượng.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ.
Đức Phật nầy như trân châu quí báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthi sambhavaṃ.
Nghiệp cũ của các bậc Thánh nhơn đã dứt hẳn rồi, nghiệp mới cũng chẳng phát sanh.
Virattacittāyatike bhavasmiṃ,
Te khīṇabījā avirūḷhichandā.
Các bậc Thánh nhơn nào đã chán nãn trong việc thoát sanh. Hạt giống đã đoạn tận, lòng dục không tăng trưởng.
Nibbanti dhīrā yathāyampadīpo.
Là bậc có Trí tuệ thường được viên tịch cũng như ngọn đèn tắt vậy.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.
Etena saccena suvatthi hotu.
Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.
Yānīdha bhūtāni samāgatāni,
Bhummāni vā yāniva antalikkhe,
Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ,
Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.
Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Phật, là các đấng Giáo Chủ đã được chứng quả giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.
Yanīdha bhūtāni samāgatāni,
Bhummāni vā yāniva antalikkhe,
Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ,
Dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.
Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ các Pháp đã có giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.
Yānīdha bhūtāni sāmāgatāni,
Bhummāni vā yāni va antalikkhe,
Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ,
Saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.
Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Tăng đã có giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.
KINH TỤNG


Dịch giả: TỊNH TÂM


(Hòa thượng HỘ TÔNG)



Ratana Sutta by Ajahn Bralm







Ratana Sutta  (Pali-English)






Ratana Sutta  (Sri Lanka)





Ratana Sutta (Slow)





Ratana Sutta 

1 nhận xét: