28 thg 1, 2014

Hạnh Phúc Kinh (Kinh Paritta)

Dẫn nhập


a. Ý nghĩa của thuật ngữ “ Cát tường” đã được chư thiên và con người nghiên cứu trong 12 năm; tuy nhiên họ không thể xác định được thực nghĩa của chúng. Vì thế Kinh 38 điều cát tường giảng rõ vấn đê này. 


b. Những gì có thể tiệt trừ mọi tội lỗi và điều xấu, được Đức Phật Tối thượng giảng rõ vì lợi ích và hạnh phúc của toàn thế giới. Xin hãy đến đây! Giờ đây chúng ta hãy tụng niệm Kinh Những Điều Cát Tường



c. Chính tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Thế Tôn đang an trụ gần thành Xá Vệ (Savathi) tại rừng Kỳ Thọ (Jeta) trong sự hoan hỷ của ông Cấp Cô Độc (Anathapindika). Khi ấy một vị thần mà hào quang rực rỡ sáng ngời toàn bộ rừng Kỳ Thọ, tới thăm Đức Thế Tôn vào lúc nửa khuya. Ông cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn và đứng nép sang một bên. Và khi đứng như vậy, ông bạch với Đức Thế Tôn theo vần điệu của thi kệ 



1. Nhiều vị trời và người khao khát hạnh phúc từng suy xét về những điều Cát tường. Cầu mong Đức Phật giải nghĩa cho con những điều Cát tường tối thượng thực sự là gì.



2. Không nên kết giao với kẻ ngu mà hãy kết giao với người trí; và tôn kính những ai đáng kính- đây là cát tường tối thượng



3. Ngụ cư nơi thích hợp; được phú cho những công đức được tích tập trong quá khứ, và tự củng cố mình trong chánh hạnh- đây là cát tường tối thượng



4. Có tri kiến uyên bác; thiện xảo trong các khoa học; tu tập nghiêm túc trong giới luật và nói lời hoà nhã- đây là cát tường tối thượng.



5. Phụng sự cha mẹ; Giúp đỡ vợ con;



6. Rộng lượng bố thí; hành xử đúng giới luật giúp đỡ thân quyến của quý vị và thực hiện những hành vi không lầm lỗi- đây là cát tường tối thượng.



7. Tránh làm điều ác; tự chế không phạm tội; Tự kềm chế không uống rượu và tinh tấn trong giới luật- đây là cát tường tối thượng.



8. Sùng kính; khiêm tốn; bằng lòng biết ơn những người tử tế và giúp đỡ mình; nhận thức giáo pháp đúng lúc- đây là cát tường tối thượng.



9. Kiên nhẫn; biết vâng lời; thăm viếng các tu sĩ; luận bàn Giáo pháp đúng lúc- đây là cát tường tối thượng.



10. Thực hành hạnh xả ly; thạnh tịnh; nhận ra các chân lý cao quý; chứng ngộ Niết bàn- đây là cát tường tối thượng.



11. Tâm bất động khi tiếp xúc với bát phong (những thăng trầm) của đời sống (những thay đổi thuộc thế gian); thoát khỏi âu lo xao xuyến; thanh tịnh không ô nhiễm; và hoàn toàn an lành- đây là cát tường tối thượng.



12. Những người thực hành các điều cát tường này luôn luôn thành công khắp mọi nơi, và đạt được hỷ lạc (hạnh phúc) khắp chốn. Với họ đây là những điều cát tường tối thượng.



Mangala Sutta, Kinh những điều Cát tường kết thúc tại đây.




CẨM NANG TỤNG NIỆM CỦA PHẬT TỬ MIẾN ĐIỆN


NGUYÊN TÁC:

HAND BOOK OF BUDDHIST RECITATION




MAṄGALA SUTTA


Evam me sutaṃ .
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.
Bahū devā manussā ca maṅgalāni acintayuṃ ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ brū himaṅgalamuttamaṃ :
1- Asevanā ca bālānaṃ paṇḍitānañca sevanā pū jā ca pū janīyānaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
2- Paṭirū padesavāso ca pubbe ca katapuññatā attasammāpaṇīdhi ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
3- Bāhusaccañca sippañca vinayo ca susikkhito subhāsitā ca yāvācā etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
4- Mātāpitu upaṭṭhānaṃ puttadārassa saṅgaho anākulā ca kammantā etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
5- Dānañca dhammacariyā ca ñātakā-nañca saṅgaho anāvajjāni kammāni etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
6- Aaratī viratī pāpā majjapānā ca saññamo appamādo ca dhammesu etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
7- Gāravo ca nivāto santuṭṭhī ca katañ-ñutā kālena dhammassavanaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
8- Khantī ca sovacassatā samanānañca dassanaṃ kālena dhammasākacchā etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
9- Tapo ca brahmacariyañca ariyasaccāna dassanaṃ nibbānasacchikiriyā ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
10- Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassanakampati asokaṃ virajaṃ khemaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ .
Etādisāni katvāna sabbatthamaparājitā sabbattha sotthiṃ gacchanti tantesaṃ maṅgalamuttamanti.



HẠNH PHÚC KINH

Ta (là A nan Ðà) có nghe như vầy:
Một thuở nọ Ðức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Ðộc, gần thành Xá Vệ (Sāvatthī)
Khi ấy, có vị Trời chiếu hào quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ Viên sáng ngời rực rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng.
Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:
Tất cả chư Thiên cùng nhơn loại, đều cầu xin được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng.
Ðức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:
1)
Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ;
Hai: tư cách thân cận các bậc trí tuệ;
Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

2)
Một: tư cách ở trong nước nên ở.
Hai: tư cách của người đã làm được việc lành đểdành khi trước.
Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

3)
Một:nết hạnh của người được nghe nhiều, học rộng,
Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia,
Ba: điều học mà người đã thọ trì được chính chắn,
Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

4)
Một: nết hạnh phụng sự Mẹ.
Hai: nết hạnh phụng sự Cha,
Ba: sự tiếp độ vợ con,
Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

5)
Một: nết hạnh bố thí.
Hai: nết hạnh ở theo Phật pháp.
Ba: sự tiếp độ quyến thuộc,
Bốn: những nghề vô tội,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng,

6)
Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi,
Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu
Ba: sự không dể duôi Phật pháp.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

7)
Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính,
Hai: nết hạnh khiêm nhường,
Ba: tri túc đến của đã có,
Bốn: nết hạnh biết ơn người,
Năm: nết hạnh tùy thời nghe pháp,
Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

8)
Một: sự nhịn nhục,
Hai: nết hạnh người dễ dạy,
Ba: nết hạnh được thấy các bậc Sa môn,
Bốn: nết hạnh biện luận về Phật pháp,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

9)
Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác,
Hai: nết hạnh hành theo pháp cao thượng,
Ba: nết hạnh thấy các pháp diệu đế,
Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết Bàn.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

10)
Một: tâm không xao động vì pháp thế gian,
Hai: không có sự uất ức,
Ba: dứt khỏi tình dục,
Bốn: lòng tự tại,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Tất cả chư Thiên và nhân loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư Thiên này! Các người nên tin rằng cả ba mươi tám điều hạnh phúc ấy là hạnh phúc cao thượng.

KINH NHẬT TỤNG CỦA CƯ SĨ

TỲ KHEO TĂNG-ÐỊNH HỢP SOẠN
MAṄGALASUTTĀRAMBHO
TỤNG BỐ CÁO HẠNH PHÚC KINH
Ye santā santacittā tisaraṇasaraṇā ettha lokantare vā.
Bhummā bhummā ca devā guṇagaṇagahaṇabyāvaṭā sabbakālaṃ.
Xin thỉnh tất cả Chư Thiên ngự trong hư không thế giới, hoặc ngoài hư không thế giới nầy, là bậc đã có lòng an tịnh và đã quy y Tam-Bảo, là bậc năng chuyên cần việc hạnh phúc.
Ete āyantu devā varakanakamaye merurāje vasanto.
Xin thỉnh tất cả Chư Thiên, ngự trên Tu-Di Sơn Vương, tinh anh bằng vàng ròng cao thượng.
Santo santo sahetuṃ munivaravacanaṃ sotumaggaṃ samaggaṃ.
Xin thỉnh tất cả Chư Thiên là bậc Tịnh giả đồng tụ hội nơi đây, đặng nghe lời vàng của Đức Thích-Ca Mâu-Ni, là Pháp Vô thượng làm cho phát sanh điều hoan lạc.
Sabbesu cakkavāḷesu,
Yakkhā devā ca brahmuno,
Yaṃ amhehi kataṃ puññaṃ,
Sabbasampattisādhakaṃ.
Sự phước báo mà chúng tôi đã làm; có thể độ thành tựu các thứ quả, cầu xin Dạ-Xoa, Chư Thiên cùng Phạm Thiên, trong cả thế giới Ta-Bà đều hoan hỉ thọ lãnh phước ấy.
Sabbe taṃ anumoditvā,
Samaggā sāsane ratā,
Pamādarahitā hontu,
Ārakkhāsu visesato.
Tất cả Dạ-Xoa, Chư Thiên cùng Phạm Thiên khi đã thọ lãnh phước ấy, xin đồng tâm hoan hỉ trong Phật Pháp. Xin dứt lòng dễ duôi và tùy phương tiện quý báu để hộ trì Phật Pháp.
Sāsanassa ca lokassa,
Vuḍḍhī bhavatu sabbadā,
Sāsanaṃpi ca lokañca,
Devā rakkhantu sabbadā.
Cầu xin Phật Pháp được thạnh đạt và chúng sanh hằng được tấn hóa. Cầu xin tất cả Chư Thiên hộ trì Phật Pháp và tiếp độ chúng sanh.
Saddhiṃ hontu sukhī sabbe,
Parivārehi attano,
Anīghā sumanā hontu,
Saha sabbehi ñātibhi.
Cầu xin cho tất cả chúng sanh đều được yên vui, được vô khổ cụ, là người có thiện tâm luôn cả thân bằng cùng quyến thuộc.
Yañca dvādasa vassāni,
Cintayiṃsu sadevakā,
Cirassaṃ cintayantāpi,
Neva jāniṃsu maṅgalaṃ,
Cakkavāḷasahassesu,
Dasasu yena tattakaṃ,
Kālaṃ kolāhalaṃ jātaṃ,
Yāva brahmanivesanā.
Tất cả nhơn loại cùng Chư Thiên trong mười ngàn thế giới Ta-Bà, hằng mong cầu và cố gắng tìm xét trong 12 năm, những điều hạnh phúc vẫn chưa tìm thấy, xôn xao thấu đến cõi trời Phạm Thiên trong khi ấy.
Yaṃ lokanātho desesi,
Sabbapāpavināsanaṃ,
Yaṃ sutvā sabbadukkhehi,
Muñcantāsaṅkhiyā narā,
Evamādiguṇūpetaṃ,
Maṅgalantambhaṇāma he.
Đức Phật có giảng giải những sự hạnh phúc làm cho các tội lỗi đều phải tiêu diệt, chúng sanh nhiều không xiết kể, đã nghe và được dứt khỏi các sự thống khổ.
 -ooOoo-
[25]
MAṄGALASUTTA
HẠNH PHÚC KINH
Evamme sutaṃ:
Tôi (tên là A-NAN-ĐA) được nghe lại như vầy:
Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme.
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ-Viên Tịnh Xá của trưởng giả Cấp-Cô-Độc gần thành Xá-Vệ (Sāvatthi).
Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ Jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā Bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Khi ấy, có vị Trời chiếu hào-quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ-Viên sáng ngời rực-rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng.
Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā Bhagavantaṃ gāthāya ajjabhāsi:
Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:
Bahū devā manussā ca,
Maṅgalāni acintayuṃ,
Ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ,
Brūhi maṅgalamuttamaṃ.
Tất cả Chư Thiên cùng nhơn loại, đều cầu mong được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng Bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng. Đức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:
Asevanā ca bālānaṃ,
Paṇḍitānañca sevanā,
Pūjā ca pūjanīyānaṃ,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ.
Hai: tư cách thân-cận các bậc Trí tuệ.
Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao-thượng.
Paṭirūpadesavāso ca,
Pubbe ca katapuññatā,
Attasammāpaṇidhi ca,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tư cách ở trong nước nên ở.
Hai: tư cách của người đã làm được việc lành để dành khi trước.
Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Bāhusaccañca sippañca,
Vinayo ca susikkhito,
Subhāsitā ca yā vācā,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh của người được nghe nhiều học rộng.
Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia.
Ba: Điều học mà người đã thọ trì được chín-chắn.
Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Mātāpitu upaṭṭhānaṃ,
Puttadārassa saṅgaho,
Anākulā ca kammatā,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh phụng sự Mẹ.
Hai: nết hạnh phụng sự Cha.
Ba: sự tiếp độ Vợ Con.
Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Dānañca dhammacariyā ca,
Ñātakānañca saṅgaho,
Anavajjāni kammāni,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh bố thí.
Hai: nết hạnh ở theo Phật Pháp.
Ba: sự tiếp độ quyến thuộc.
Bốn: những nghề vô tội.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Āratī viratī pāpā,
Majjapānā ca saññamo,
Appamādo ca dhammesu,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi.
Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu.
Ba: sự không dể duôi Phật Pháp.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Gāravo ca nivāto ca,
Santuṭṭhī ca kataññutā,
Kālena dhammassavanaṃ,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính.
Hai: nết hạnh khiêm nhượng.
Ba: tri túc đến của đã có.
Bốn: nết hạnh biết đền ơn người.
Năm: nết hạnh tùy thời nghe Pháp.
Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Khantī ca sovacassatā,
Samaṇānañca dassanaṃ,
Kālena dhammasākacchā,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự nhịn nhục.
Hai: nết hạnh người dễ dạy.
Ba: nết hạnh được thấy được gặp các bậc Sa-Môn.
Bốn: nết hạnh biện luận về Phật Pháp.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Tapo ca brahmacariyañca,
Ariyasaccāna dassanaṃ,
Nibbānasacchikiriyā ca,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác.
Hai: nết hạnh hành theo Pháp cao thượng.
Ba: nết hạnh thấy các Pháp Diệu-đế.
Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết-bàn.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Phuṭṭhassa lokadhammehi,
Cittaṃ yassa na kampati,
Asokaṃ virajaṃ khemaṃ,
Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tâm không xao động vì Pháp thế gian.
Hai: không có sự uất ức.
Ba: dứt khỏi tình dục.
Bốn: lòng tự tại.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.
Etādisāni katvāna,
Sabbatthamaparājitā,
Sabbattha sotthiṃ gacchanti,
Tantesaṃ maṅgalamuttaman’ti.
Tất cả Chư Thiên và nhơn loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư Thiên nầy! Các người nên tin rằng cả 38 điều hạnh phúc ấy, là hạnh phúc cao thượng.
KINH TỤNG
Dịch giả: TỊNH TÂM

(Hòa thượng HỘ TÔNG)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét